chan dung nha tho tu xuong
chan dung nha tho tu xuong

Thơ Trào Phúng Của Tú Xương: Tiếng Cười Châm Biếm Xã Hội Mục Nát?

Thơ Trào Phúng Của Tú Xương, một nhà thơ nổi tiếng với bút pháp châm biếm sắc sảo, phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 19. Bài viết này của Xe Tải Mỹ Đình sẽ khám phá sâu sắc các khía cạnh độc đáo trong thơ ông, từ đó giúp bạn hiểu rõ hơn về tài năng và tầm nhìn của nhà thơ trào phúng bậc nhất này. Bạn sẽ hiểu thêm về các chủ đề như thói đời, quan trường, và những bất công xã hội dưới ngòi bút trào phúng của Tú Xương.

1. Đôi Nét Về Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Tú Xương

1.1. Cuộc Đời Nhiều Thăng Trầm

Trần Tế Xương (1870-1907), thường được biết đến với tên Tú Xương, là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng của Việt Nam.

Theo “Tú Xương, Con Người và Nhà Thơ” của Trần Thanh Mại và Trần Tuấn Lộ (Nhà xuất bản Văn Hóa), Tú Xương sinh ra tại làng Vị Xuyên, nay thuộc tỉnh Nam Định.

Ông nổi tiếng thông minh, tính tình hài hước, thích trào lộng. Tuy nhiên, con đường khoa cử của ông lại đầy trắc trở, thi cử nhiều lần không đỗ, điều này ảnh hưởng sâu sắc đến các sáng tác của ông.

Tú Xương kết hôn sớm với bà Phạm Thị Mẫn, một người phụ nữ đảm đang, tần tảo buôn bán để nuôi sống gia đình.

Theo nghiên cứu của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Khoa Ngữ văn, năm 2023, cuộc sống gia đình khó khăn và sự nghiệp thi cử lận đận là nguồn cảm hứng lớn cho thơ Tú Xương.

chan dung nha tho tu xuongchan dung nha tho tu xuong

Chân dung nhà thơ Tú Xương với nụ cười hóm hỉnh, ánh mắt tinh anh

1.2. Sự Nghiệp Sáng Tác Đậm Chất Trào Phúng

Tú Xương chủ yếu sáng tác thơ trào phúng, khai thác các đề tài thi cử, những điều mắt thấy tai nghe trong xã hội đương thời.

Ông không ngần ngại vạch trần sự tha hóa của xã hội trước đồng tiền, đả kích tầng lớp nho sĩ cuối mùa. Bên cạnh đó, ông cũng có những bài thơ trữ tình sâu sắc.

Theo “Thơ Văn Trần Tế Xương” (Nhà xuất bản Văn Học, 1970), Tú Xương để lại hơn 150 bài thơ với nhiều thể loại khác nhau, phản ánh đa dạng các khía cạnh của cuộc sống.

Ông được tôn vinh là “nhà thơ thiên tài” với những tác phẩm có giá trị lớn đối với văn học dân tộc. Nỗi đau cá nhân hòa quyện với nỗi đau của dân tộc, tạo nên những tác phẩm bất hủ.

2. Tiếng Cười Trào Phúng Độc Đáo Trong Thơ Tú Xương

Tiếng cười trào phúng trong thơ Tú Xương mang một sắc thái riêng biệt, vượt trội so với các nhà thơ trào phúng khác.

Nếu tiếng cười của Hồ Xuân Hương mang tính chất lấp lửng, tiếng cười của Nguyễn Khuyến thâm trầm, kín đáo, thì tiếng cười của Tú Xương lại phong phú, linh động đến tuyệt vời.

Chính sự đa dạng này đã giúp ông trở thành người tiên phong trong nền thơ trào phúng Việt Nam.

Tài sản văn chương của Tú Xương không nhiều, nhưng lại chiếm một vị trí đặc biệt trên thi đàn Việt Nam.

Ông cất lên tiếng cười dân tộc, thêm âm sắc, thêm đốt khớp, tạo nên sự co duỗi linh động, thoải mái.

Hơn một thế kỷ qua, thơ Tú Xương vẫn không bị lãng quên, mà ngày càng phổ biến rộng rãi.

Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Nguyễn Văn Tùng, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2024, tiếng cười trong thơ Tú Xương bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, được ông ý thức hóa và biến thành chất liệu sáng tác độc đáo.

Tú Xương sống trong bối cảnh giao thời của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, khi xã hội phong kiến suy tàn và xã hội thực dân nửa phong kiến hình thành. Tuổi thơ của ông trải qua trong tiếng súng thắng trận của kẻ thù.

Ngay cả thành Nam quê ông cũng bị biến thành xã hội tư bản thu nhỏ, với những cuộc va chạm tư tưởng Đông – Tây gay gắt. Sự xung đột lịch sử đó đã tạo ra một giai cấp mới với nhiều thành phần hỗn tạp. Bức tranh xã hội đó đã trở thành đối tượng để Tú Xương châm biếm, trào lộng.

Trong xã hội đen tối đó, cuộc đời Tú Xương là một chuỗi bi kịch. Ông là người tài năng, nhưng không thể đem tài ra thi thố với đời. Không thể hòa tan vào xã hội lố lăng lúc bấy giờ, ông bị gạt ra bên lề, quanh quẩn với nỗi bi kịch của mình.

Bế tắc về lý tưởng, thiếu lòng tin vào bản thân và cuộc đời, Tú Xương đã biến những bi kịch xã hội cùng sự thất vọng cá nhân thành tiếng cười trên bờ sông nhân thế.

Đó chính là những nhân tố khách quan và chủ quan khiến Tú Xương ý thức hóa trào phúng hóa thơ mình. Nhờ vậy, thơ của ông luôn được nhân dân yêu thích.

3. Tuyển Chọn Thơ Trào Phúng Đặc Sắc Của Tú Xương

Thơ văn Tú Xương cho thấy ông là một nhà thơ trào phúng xuất sắc, một bậc “thần thơ, thánh chữ”. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, thể hiện nỗi lòng với con người, đất nước Việt Nam.

3.1. Mùa Nực Mặc Áo Bông: Tự Trào Về Cái Nghèo

Bực mình nhưng mình vẫn áo bông,

Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không!

Một tuồng rách rưới con như bố,

Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng.

Đất biết bao giờ sang vận đỏ?

Trời làm cho bõ lúc chơi ngông!

Gần chùa gần cảnh ta tu quách,

Cửa Phật quanh năm sẵn áo sồng.

Tinh thần trào lộng, tự giễu cợt trong bài thơ “Mùa nực mặc áo bông” thật lớn. Biết tự cười mình luôn là bản lĩnh lớn và ngạo nghễ của những người có cá tính. Với Tú Xương, ông tự thấy bản thân có những nghịch lý để tự trào.

Ông không có nhiều quần áo, chỉ có một tấm áo bông rất đẹp. Do đó, khi phải tiếp khách, dù trời nóng phát sốt, ông vẫn phải mặc áo rét.

“Bực mình nhưng mình vẫn áo bông – Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không”. Cảnh đó thật buồn cười, nhưng sau cái cười là sự thương cảm với thân phận nhà thơ nghèo khổ.

3.2. Năm Mới Chúc Nhau: Phê Phán Thói Sáo Rỗng

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:

Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.

Phen này ông quyết đi buôn cối,

Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:

Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?

Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc,

Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:

Đứa thì mua tước, đứa mua quan.

Phen này ông quyết đi buôn lọng,

Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:

Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.

Phố phường chật hẹp, người đông đúc,

Bồng bế nhau lên nó ở non.

Bắt chước ai ta chúc mấy lời:

Chúc cho khắp hết ở trong đời.

Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước,

Sao được cho ra cái giống người.

Bài thơ “Năm mới chúc nhau” châm biếm, giễu cợt, khinh ghét lối sống lố lăng kệch cỡm của những kẻ giàu sang, hãnh tiến, nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đời nô lệ, dân chúng lầm than. Tú Xương giống một tiếng chuông cảnh tỉnh, phê phán.

Thái độ thẳng thắn ấy bắt nguồn từ một khao khát nhân bản: làm sao để cuộc đời tốt đẹp hơn, xóa sạch kiểu chúc Tết khác “giống người” mà Tú Xương đã phải đau lòng chứng kiến.

3.3. Tự Cười Mình: Thú Nhận Sự Bất Tài

Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành

Mắt thời thao láo, mặt thời xanh

Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó

Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh

Bài bạc kiệu cộ cao nhất xứ

Rượu chè trai gái đủ tam khoanh

Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi

Cứ việc ăn chơi, chẳng học hành

Lúc túng toan lên bán cả trời

Trời cười thằng bé nó hay chơi

Cho hay công nợ âu là thế

Mà vẫn phong lưu suốt cả đời

Tiền bạc phó cho con mụ kiếm

Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi

Còn dăm ba chữ nhồi trong bụng

Khéo khéo không mà nó cũng rơi.

Tinh thần trào lộng, tự giễu cợt trong bài thơ “Tự cười mình” thật lớn. Biết tự cười mình luôn là bản lĩnh rất lớn và ngạo nghễ của những người có cá tính. Với Tú Xương, ông tự thấy bản thân có những nghịch lý để tự trào.

3.4. Bợm Già: Châm Biếm Kẻ Cơ Hội

Thầy thầy tớ tớ, phố xênh xang,

Thoạt nhác trông ra ngỡ cóc vàng.

Kiện hết sở Tuần, vô sở Sứ,

Khi thì thầy số, lúc thầy lang.

Công nợ bóp bơ hình chúa Chổm,

Phong lưu đài các giống ông hoàng.

Phong lưu như thế phong lưu mãi,

Điếu ống, xe dài độ mấy gang?

Bài thơ “Bợm Già” giễu cợt một tay bợm đóng nhiều vai, thầy lang, thầy bói, thầy dùi. Tên này thường luồn lọt vào các công sở để xui nguyên giục bị kiện nhau.

3.5. Ông Cò: Đả Kích Thói Hống Hách Của Quan Lại

Hà Nam danh giá nhất ông cò

Trông thấy ai ai chẳng dám ho

Hai mái trống toang đành chịu dột

Tám giờ chuông đánh phải nằm co

Người quên mất thẻ âu trời cãi

Chó chạy ra đường có chủ lo

Ngớ ngẩn đi xia may vớ được

Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to!

Bài thơ “Ông cò” được coi là một bài thơ trào phúng. Tú Xương sử dụng ngôn ngữ châm biếm để chỉ trích những người quan lại, những kẻ rởm đời và những người theo đuổi tiền bạc mà không quan tâm đến lương tâm.

3.6. Thói Đời: Than Thở Sự Thay Đổi Của Thế Gian

Người bảo ông điên, ông chẳng điên,

Ông thương ông tiếc hóa ông phiền.

Kẻ yêu người ghét hay gì chữ,

Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền.

Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch,

Được voi tập tễnh lại đòi tiên.

Khi cười khi khóc khi than thở,

Muốn bỏ văn chương học võ biền!

Bài thơ “Thói đời” thể hiện sự chán nản với thời cuộc cũng như nghề làm thơ của chính tác giả trong xã hội xưa. Qua đó, Tú Xương cho thấy một sự thật về xã hội phong kiến xưa, nơi những người có tài văn chương như ông không được trọng dụng, vì vậy phải sống trong cảnh nghèo khổ, cùng cực.

3.7. Quan Tại Gia: Chế Giễu Thói Hách Dịch

Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng,

Bốn con làm lính, bố làm quan.

Câu thơ, câu phú, sưu cùng thuế,

Nghiên mực, nghiên son, tổng với làng.

Nước quạt chưa xong, con nhảy ngựa,

Trống hầu vừa dứt, bố lên thang.

Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ,

Đem chuyện trăm năm giở lại bàn.

Thơ trào phúng của Tú Xương rất phong phú, vì nó là tấm gương soi chiếu cuộc đời nên cuộc đời có gì thì nó hiện lên, không phân biệt đề tài lớn, nhỏ. Chuyện những kẻ dốt nát lại được làm quan, việc thi cử và thái độ ngạo mạn của bọn thực dân được ông chế giễu một cách sâu cay. Bài thơ trên là một ví dụ.

3.8. Ba Cái Lăng Nhăng: Tự Trách Mình Vô Tích Sự

Một trà, một rượu, một đàn bà,

Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.

Chừa được thứ nào hay thứ ấy,

Có chăng chừa rượu với chừa trà

Vịnh Khoa thi hương (Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu)

Nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,

Váy lê quét đất mụ đầm ra.

Nhân tài đất Bắc nào ai đó,

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.

Bài thơ “Ba cái lăng nhăng” chính là lời tự trào của tác giả về bản thân mình. Chính xã hội đó đã biến ông thành một người vô dụng. Đã “ăn bám vợ” lại còn mê rượu, trà lẫn gái. Ông đã mượn lời chửi mình để chửi người, chửi cái xã hội phong kiến thối nát.

3.9. Đất Vị Hoàng: Phản Ánh Xã Hội Kim Tiền

Có đất nào như đất ấy không?

Phố phường tiếp giáp với bờ sông.

Nhà kia lỗi phép con khinh bố,

Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.

Keo cú người đâu như cứt sắt,

Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.

Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,

Có đất nào như đất ấy không?

Bằng nghệ thuật châm biếm, câu hỏi tu từ đầu cuối tương ứng, bài thơ “Đất Vị Hoàng” đã vạch trần được bộ mặt thật của xã hội nửa phong kiến đồng thời qua đây nhà thơ Tú Xương cũng bày tỏ thái độ tố cáo, đả kích sâu cay với những con người vì đồng tiền mà đánh mất giá trị bản thân, giá trị đạo đức xã hội. Đó là nỗi đau của người trong cuộc, đớn đau trước vận mệnh đất nước.

3.10. Đi Hát Mất Ô: Giễu Cợt Thói Trăng Hoa

Đêm qua anh đến chơi đây

Giày chân anh dận, ô tay anh cầm

Rạng ngày sang trống canh năm

Anh dậy, em hãy còn nằm trơ trơ

Hỏi ô, ô mất bao giờ

Hỏi em, em cứ ậm ừ không thưa

Chẳng e rầy gió mai mưa

Lấy gì đi sớm về trưa với tình?

Bài thơ “Đi Hát Mất Ô” mang nét trào phúng đặc sắc, là tiếng cười giễu cợt sâu cay một bộ phận trong xã hội thối nát đương thời.

3.11. Vịnh Khoa Thi Hương (Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu): Phơi Bày Sự Hỗn Loạn

Nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.

Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,

Váy lê quét đất mụ đầm ra.

Nhân tài đất Bắc nào ai đó,

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.

Bài thơ miêu tả chi tiết về khoa thi Hương. Đầu tiên là miêu tả về kỳ thi, tiếp đến tác giả miêu tả cảnh tượng đi thi của các sĩ tử, quan trường, những ông to bà lớn tại trường thi. Với hình ảnh sĩ tử lôi thôi vai đeo lọ, quan trường miệng thét loa, lọng cắm rợp trời, váy lê quét đất. Một hiện thực xã hội lúc bấy giờ vô cùng đau buồn, nhốn nháo, nhố nhăng, nhưng cũng trữ tình thấm thía bao cay đắng, tủi nhục.

3.12. Vì Tiền: Chỉ Trích Sự Hám Lợi

Vì chưng chẳng có, hóa thân hèn,

Hổ với anh em, chúng bạn quen.

Thuở trước chơi bời còn quyến luyến,

Bây giờ đi lại dám mon men!

Giàu sang, âu yếm, tình quen thuộc,

Bần tiện, thờ ơ, dạ bạc đen.

Ví khiến trong tay tiền bạc có

Nói dơi nói chuột, chán người khen.

Tú Xương đã khai thác tiếng cười từ những chệch choạc, nhố nhăng trong xã hội và tự cười nhạo chính mình để nói lên những thói tật của đời sống. Ông đã tạo nên một giọng điệu rất riêng bởi cá tính độc đáo của mình.

4. FAQ – Các Câu Hỏi Thường Gặp Về Thơ Tú Xương

  • Thơ trào phúng của Tú Xương có những đặc điểm gì nổi bật?

    • Thơ Tú Xương kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình. Tiếng cười trong thơ ông phong phú, linh động, bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống.
  • Đề tài chính trong thơ trào phúng của Tú Xương là gì?

    • Các đề tài chính bao gồm thi cử, quan trường, thói đời, những bất công xã hội và sự tha hóa của con người trước đồng tiền.
  • Tú Xương có những tác phẩm trào phúng tiêu biểu nào?

    • Một số tác phẩm tiêu biểu là “Mùa Nực Mặc Áo Bông”, “Năm Mới Chúc Nhau”, “Tự Cười Mình”, “Bợm Già”, “Ông Cò”, “Thói Đời”, “Quan Tại Gia”, “Ba Cái Lăng Nhăng”, “Đất Vị Hoàng”, “Đi Hát Mất Ô”, “Vịnh Khoa Thi Hương”, “Vì Tiền”.
  • Vì sao thơ Tú Xương vẫn được yêu thích đến ngày nay?

    • Vì thơ ông phản ánh chân thực xã hội đương thời, tiếng cười trào phúng sâu sắc, mang tính phê phán và tố cáo mạnh mẽ. Bên cạnh đó, thơ ông cũng thể hiện tình yêu nước, thương dân.
  • Tú Xương có ảnh hưởng như thế nào đến nền văn học Việt Nam?

    • Tú Xương là một trong những nhà thơ trào phúng xuất sắc nhất của Việt Nam. Ông có đóng góp lớn trong việc phát triển thể loại thơ trào phúng, tạo nên phong cách riêng biệt và ảnh hưởng đến nhiều thế hệ nhà thơ sau này.
  • Ngoài thơ trào phúng, Tú Xương còn sáng tác thể loại nào khác không?

    • Ngoài thơ trào phúng, Tú Xương còn sáng tác thơ trữ tình, thể hiện tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước.
  • Cuộc đời của Tú Xương có ảnh hưởng như thế nào đến các tác phẩm của ông?

    • Cuộc đời lận đận, thi cử không thành công, gia cảnh nghèo khó và chứng kiến xã hội nhiều bất công đã ảnh hưởng sâu sắc đến các sáng tác của Tú Xương, tạo nên những vần thơ trào phúng vừa hài hước vừa chua xót.
  • Thơ Tú Xương có giá trị như thế nào đối với việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt Nam cuối thế kỷ 19?

    • Thơ Tú Xương là nguồn tư liệu quý giá, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tình hình xã hội, đời sống văn hóa và tư tưởng của người Việt Nam cuối thế kỷ 19.
  • Tú Xương đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào để tạo nên tiếng cười trào phúng trong thơ?

    • Tú Xương sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nói ngược, phóng đại, tương phản, chơi chữ, kết hợp ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học để tạo nên tiếng cười trào phúng độc đáo.
  • Có những nghiên cứu nào về thơ Tú Xương mà bạn có thể giới thiệu?

    • Có nhiều công trình nghiên cứu về Tú Xương, ví dụ như:
      • “Tú Xương, Con Người và Nhà Thơ” của Trần Thanh Mại và Trần Tuấn Lộ
      • “Thơ Văn Trần Tế Xương” (Nhà xuất bản Văn Học, 1970)
      • Các bài nghiên cứu, luận văn của các nhà nghiên cứu văn học trên các tạp chí khoa học và hội thảo chuyên ngành.

Bạn đang tìm kiếm thông tin chi tiết và đáng tin cậy về các loại xe tải tại Mỹ Đình, Hà Nội? Bạn muốn so sánh giá cả, thông số kỹ thuật giữa các dòng xe và được tư vấn lựa chọn xe phù hợp với nhu cầu và ngân sách? Hãy truy cập ngay XETAIMYDINH.EDU.VN để được giải đáp mọi thắc mắc và nhận sự hỗ trợ tận tình từ đội ngũ chuyên gia của chúng tôi.

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *