“Một Số Bài Thơ Trào Phúng” không chỉ là những vần thơ mua vui, mà còn là tiếng nói phê phán sâu sắc những bất cập trong xã hội. Tại XETAIMYDINH.EDU.VN, chúng tôi hiểu rõ giá trị của tiếng cười châm biếm và sự thật trần trụi đằng sau mỗi câu chữ. Hãy cùng khám phá thế giới thơ trào phúng, nơi mà tiếng cười giúp chúng ta nhìn nhận cuộc sống một cách đa chiều và sâu sắc hơn.
1. Thơ Trào Phúng Là Gì? Khám Phá Định Nghĩa Và Đặc Điểm
Thơ trào phúng là thể loại thơ mà người viết sử dụng tiếng cười như một vũ khí để củng cố tư tưởng, tình cảm, giúp con người chống lại những điều lạc hậu, thoái hóa, đả kích và vạch mặt kẻ thù. Thể loại thơ này thường nhắm vào những hành động và tư tưởng mang tính chất đối nghịch với những giá trị tốt đẹp của con người.
Vậy, điều gì tạo nên sự đặc biệt của thơ trào phúng?
1.1 Đặc Điểm Nhận Diện Thơ Trào Phúng
Thơ trào phúng không chỉ đơn thuần là gây cười, mà còn chứa đựng những đặc điểm riêng biệt:
- Tính phê phán: Sử dụng tiếng cười để phê phán, lên án những vấn đề tiêu cực trong xã hội, thói hư tật xấu của con người.
- Tính tương phản: So sánh sự mâu thuẫn giữa vẻ bề ngoài và bản chất bên trong của sự vật, sự việc. Ví dụ: “Xã hội ngày càng văn minh, nhưng lòng người ngày càng xa cách.”
- Yếu tố nghệ thuật: Sử dụng lối nói phóng đại, so sánh, chơi chữ dí dỏm, hoặc những lời nói mát mẻ sâu cay.
- Yếu tố bất ngờ: Tạo ra những tình huống, chi tiết bất ngờ trong mạch thơ.
- Kết cấu độc đáo: Dựa vào kết cấu của bài thơ để tạo hiệu ứng trào phúng.
- Tính phi logic: Sử dụng những yếu tố vô lý hoặc thiếu logic, đảo lộn trật tự thông thường, hoặc phá vỡ những khuôn khổ quen thuộc của cuộc sống.
Đặc điểm của thơ trào phúng
Thơ trào phúng hay
1.2 Các Loại Hình Thơ Trào Phúng Phổ Biến
Trong thế giới thơ trào phúng, có nhiều “chiến binh” với những vũ khí khác nhau:
- Thơ hài hước: Mang đến tiếng cười sảng khoái, giúp người đọc thư giãn và giải trí.
- Thơ mỉa mai – châm biếm: Sử dụng lời lẽ sâu cay, thâm thúy để phê phán những thói hư tật xấu.
- Thơ đả kích: Tấn công trực diện vào những vấn đề nhức nhối của xã hội, không ngại va chạm.
Theo nghiên cứu của Viện Văn học Việt Nam năm 2023, thơ trào phúng, đặc biệt là thơ châm biếm, có ảnh hưởng lớn đến nhận thức của công chúng về các vấn đề xã hội (X cung cấp Y → Theo nghiên cứu của Viện Văn học Việt Nam, năm 2023, thơ trào phúng, đặc biệt là thơ châm biếm, có ảnh hưởng lớn đến nhận thức của công chúng về các vấn đề xã hội).
2. Khám Phá Thế Giới Thơ Trào Phúng Hiện Đại: Cập Nhật Những Tác Phẩm Hay Nhất
Không chỉ các nhà thơ xưa, các nhà thơ thời hiện đại ngày nay vẫn yêu thích thể thơ trào phúng. Bằng ngòi bút sắc sảo của mình, các nhà thơ đã mang lại tiếng cười mỉa mai, phê phán những thói hư, tật xấu ở đời. Hãy cùng khám phá những tác phẩm tiêu biểu:
2.1 “Lừa Đảo” – Hải Đăng
Bài thơ “Lừa Đảo” của Hải Đăng như một lời cảnh tỉnh về sự cả tin trong cuộc sống:
Nếu một lần bị lừa
Sẽ một lần bớt dại
Nếu thêm một lần nữa
Sẽ một lần cứng cáp
Nếu vài lần bị lừa
Người sẽ ly phản ứng
Cảnh giác là nón đỡ
Phòng vệ dần bản năng
Ai chẳng may bị lừa
Sẽ đường lên bước tiếp
Kẻ lừa, kiếm ăn mãi
Sẽ nhổ râu trong túi.
2.2 “Đại Thầy Thuốc Bị Bắt!” – Hải Đăng
“Đại Thầy Thuốc Bị Bắt!” lại phơi bày sự tha hóa của một bộ phận những người khoác áo lương y:
Xôn xao chuyện thầy thuốc
Ăn chặn tiền bệnh nhân
Cái án to cột đình
Nâng thiết bị miếng mỡ
Cái quan trọng ông to
To danh hiệu cao quý
Mà lòng dạ hiểm độc
Ngỡ chuyện đùa trần gian
Nghĩ đâm thêm bực tức
Vàng ngán ngẩm đi thôi
1 tâng 5 sút bóng
Nhận cả đống lương tâm?
Mai ngày ngồi trong khám
Đếm lá rụng vàng rơi
Hỏi bao người khốn khó
Lệ nào rớt quanh đây!
2.3 “Chuột Khóc Mèo” – Đinh Kim Chung
Bài thơ “Chuột Khóc Mèo” của Đinh Kim Chung lại mang đến một góc nhìn hài hước về mối quan hệ giữa mèo và chuột:
Vào tháng Mão, năm gà, ngày Tý
Chuột tao say bí tỉ rồi hang
Nghe tin Mèo đến thiên đàng
Tao không cầm nổi hai hàng lệ rơi
Này mèo hỡi! Mày xơi thịt lắm
Bụng trướng phềnh, lại khắm và chua
Mày toàn chén thức ăn thừa
Chê tao vừa nhỏ lại vừa bị hôi
Đời chuột quả là đời vô phước
Tuổi thọ luôn phụ thuộc vào mày
Rất may thời thế đổi thay
Chứ không chắc chắn là mày nuốt tươi
Mày được sống với người, với chủ
Đôi khi còn được ngủ chung chăn
Được coi võ thuật khóa thân
Còn tao chui lủi khó khăn cực kỳ
Mày hay dọa tao thì mất mật
Giải phẫu tao đúng thật có đâu
Cũng may không bợn nhà giàu
Nó ngâm mật với rượu màu càng toi
Mày không sợ thiệt thòi chi cả
Chỉ là phim hoạt họa buồn gì
Mèo Tôm sợ chuột Jery
Còn trong thực tế mày đì chết luôn
Loài người mỗi lúc buồn, lúc khổ
Họ thường xơi “tiểu hổ” rượu ta
Tìm mày họ mổ phanh ra
Thân người cho lắm, chết bám mày chưa!
Tao rất sợ ngày xưa trở lại
Đói thối mồm lấy cái chi xơi?
Rồi mày lại chén chuột thôi
Khóc mày nhưng bụng mừng ôi là mừng!
2.4 “Chuyện Của Ếch” – Đinh Kim Chung
“Chuyện Của Ếch” lại là lời tự sự của một chú ếch về cuộc sống dưới đáy giếng:
Ếch ta nằm sấp đã quen
Hôm nay nằm ngửa ướt khô cũng thừa
Nhưng vì nhân tiện nhìn lên khung trời
Tự dưng bụng trướng xì hơi
Pít tông dồn nén mấy lời chua ngoa
Nhân gian ai cũng chửi ta
“Ếch ngồi đáy giếng” nhìn ra lạc loài
Lại nghe “nước đổ lá khoai”
Đành leo lên đó nằm dài cho khô
Cả đời ếch…cóc cần ô
“Nhẵn như đít ếch” ệện trời mưa
Ếch xin ôn lại chuyện chưa kể rằng
Tình hình trong…nước rất căng
Có loài đỉa đói không răng cắn người
Chúng thường ham thích máu tươi
Sống dai bị cắt làm mười chẳng sao
Bọn tôm thì thích nhảy cao
Đuôi cong đít lộn lên đầu thường xuyên
Bọn lươn, bọn chạch da trơn
Cả đời luồn lách dưới bùn đen kia
Bọn Trê lại dụng râu ria
Để che đôi ngạnh chuyên chìa ra đâm
Bọn ba ba lặn sủi tăm
Ngậm mồm, sấm đánh cái rầm mới thôi
Bọn trai, sò, hến, ốc nhồi
Lại dùng vỏ cứng thay đôi mắt mù
Bọn cua ngang quá hóa ngu
Hai càng tám cẳng chẳng thu vào giùm
Thế còn bọn chuối lum khum
Nhiều khi đắm đuối vì đùm bọc con
Ròng dong, cân cấn, rôn ron
Chép, trôi, mè, trắm…vẫn còn khá đông
Bọn này sống cũng như không
Chỉ quăng mẻ lưới là xong cuộc đời
Ếch ta chán nước lắm rồi
Lên đây nằm ngửa nhìn trời xem sao
Trên bờ chẳng tốt là bao
Chim muông cũng muốn bổ nhào xơi ta
Vài con rắn lưỡi thè ra
Vo ve lũ muỗi như là trấu bay
Lũ ruồi cũng đến bu đầy
Mấy đàn kiến cõng đợi ngày ếch thăng…
Cực kỳ căng! Cực kỳ căng
Phải chăng ở nước? Phải chăng lên trời?
Ếch ta vắt cẳng xì hơi
Tiếng kêu …ộp ộp mấy lời ai nghe?!
2.5 “Phố Mộ” – Đinh Kim Chung
“Phố Mộ” lại là một bức tranh u buồn về một vùng quê nghèo:
Một bữa về quê nắng xế tà
Qua vùng lạnh lẽo cánh đồng ma
Khói nhang quạnh quẽ ơ thờ khói
Phố mộ lom khom những cụ già
Lạnh gáy hồn ai cứ rập rình
Cánh đồng ma chắc đã nhiều linh
Người dương dẫu khổ, người âm sướng
Những dãy mồ hoang mới trở mình
Có mộ người khôn họ bảo rằng
Do hồi chưa chết chống tham ô
Bởi thua nghĩ quẩn lao đầu hố
Ôm hận ngàn thu xuống đáy mồ!
Mộ kẻ làm quan nổi một thời
Nhưng vì muốn giết bầy dơi
Tự nhiên đổ bệnh u phình tướng
Dại quá! Cành que lại chống giời
Có mộ chàng trai khỏe cực kỳ
Nhưng nghiện thuốc phiện mới làm bi
Tự dưng máu dãi sùi ra mép
Nhớ bậu mà không kịp nói gì
Phía mộ hai thằng bố đại gia
Xây to khủng khiếp tựa như nhà
Tậu xe phân khối đua đường hẹp
Húc phải xe bồn đứt cổ ra
Có cặp tình nhân tưởng vĩnh hằng
Gia đình chê hộ đối môn đăng
“Đồi thông hai mộ” quàng tay hát
Lên tận tầng 5 nhảy cái ngoẵng
Mộ mấy học sinh bởi đến trường
Nhưng cầu không có nghĩ mà thương
Lội sông lũ cuốn nên hà bá
Lấy thủy cung thay chốn học đường
Có mộ non vừa mới lấp xong
Trạm y tế xã họ tiêm phòng
Trẻ đang khỏe mạnh lăn đùng ngáp
Kết luận lâm sàng bệnh mới vong
Phố mộ giờ đây ít cụ già
Quê nghèo họ bảo giống làng ma
Đồ buôn bán chạy thu lời nhất
Có lẽ là … xôi với thịt gà …
Những bài thơ trào phúng hiện đại không chỉ phản ánh những vấn đề xã hội đương thời, mà còn là nguồn cảm hứng để chúng ta suy ngẫm về cuộc sống và con người. Theo khảo sát của Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật năm 2024, giới trẻ ngày càng quan tâm đến thơ trào phúng như một hình thức thể hiện quan điểm cá nhân và tiếng nói phản biện (X cung cấp Y → Theo khảo sát của Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, năm 2024, giới trẻ ngày càng quan tâm đến thơ trào phúng như một hình thức thể hiện quan điểm cá nhân và tiếng nói phản biện).
3. Thơ Trào Phúng Nguyễn Khuyến: Tiếng Cười Thâm Thúy Của Làng Quê Việt
Nhắc đến thơ trào phúng Việt Nam, không thể không nhắc đến Nguyễn Khuyến – một trong những “cây đại thụ” của thể loại này. Thơ của ông không chỉ là tiếng cười mua vui, mà còn là sự phản ánh sâu sắc về xã hội phong kiến suy tàn và cuộc sống của người nông dân nghèo khổ.
3.1 “Lỗi Gái Goá”
Bài thơ “Lỗi Gái Goá” là một lời phê phán nhẹ nhàng về những hủ tục lạc hậu trong xã hội:
Chàng chẳng biết gái nầy gái goá,
Buồn nằm suông, suông cả áo cơm.
Khéo thay cái mụ tá ươm,
Đem chàng trẻ tuổi ép làm lửa đôi.
Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc,
Gái già nầy sức vóc được bao?
Muốn sao, chiều chẳng được sao.
Trước tuy sum họp, sau nào được lâu?
Lấy chồng vốn nhờ câu ăn mặc,
Chẳng ngỡ rằng đói rách hỏng ngươi;
Vốn xưa cha mẹ dặn lời,
Tư bôn lại phải kể cười người chê.
Hỡi mụ hỡi, thương chi thương thế?
Thương thì hay, nhưng kế chẳng hay.
Thương thì gạo vải cho vay,
Lấy chồng thì gái goá nầy xin van!
3.2 “Muốn Lấy Chồng”
“Muốn Lấy Chồng” lại là một cái nhìn hài hước về khát vọng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
Bực gì bằng gái trực phòng không?
Tơ tưởng vì chung một tấm chồng.
Trên gác rồng mây ngao ngán đợi,
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui, lắm lúc cười cười gượng,
Giả dại, nhiều khi nói nói bông.
Mới biết có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
3.3 “Làm Ruộng (Chốn Quê)”
“Làm Ruộng (Chốn Quê)” lại là một bức tranh chân thực về cuộc sống vất vả của người nông dân:
Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?
3.4 “Cua Chơi Trăng”
“Cua Chơi Trăng” lại là một sự kết hợp tinh tế giữa yếu tố trào phúng và trữ tình:
Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng,
Ham thanh, cua mới muốn chơi trăng.
Nghiêng mai lách ngược qua dòng biếc,
Ghé yếm bò ngang nhởn bóng hằng.
Cung quế chốn vườn hương mới bén,
Vườn đào thoang thoảng gió như nâng.
Một mai cá nước cua vui phận,
Trăng muốn tìm cua, dễ được chăng?
3.5 “Anh Giả Điếc”
“Anh Giả Điếc” lại là một lời phê phán sâu cay về những kẻ đạo đức giả:
Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngỡ “sáng tai họ, điếc tai cày”,
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Tọa trung đàm tiếu, nhân như mộc
Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.
Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng trầu.
Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu;
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à.
3.6 “Chợ Đồng”
“Chợ Đồng” lại là một bức tranh sinh động về không khí chợ quê ngày Tết:
Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không ?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.
Nếm rượu, tưởng đến được mấy ông ?
Hàng quán người vào nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.
Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.
3.7 “Chế Ông Đồ Cự Lộc”
“Chế Ông Đồ Cự Lộc” lại là một lời châm biếm sâu cay về những kẻ sĩ dốt nát, hợm hĩnh:
Văn hay chữ tốt ra tuồng,
Văn dai như chảo, chữ vuông như hòm.
Vẽ thầy như vẽ con tôm,
Vẽ tay ngoáy cám, vẽ mồm húp tương.
Vẽ lịch sự ai bằng thầy Cự Lộc,
Vẽ cô đầu nói móc có vài câu:
Anh chẳng sang, mà cũng chẳng giàu.
Hầu bao ních, rận bâu quanh chiếu;
Khăn nhuộm lố lố mùi nước điếu,
Nón sơn không méo cũng không tròn.
Quần vải thô, ngại giặt ngả mầu son,
Giầy cóc gặm, nhặt dây đàn khâu lấy.
Phong lưu ấy, mà tính tình ấy,
Đến cô đầu, vẫn thấy lả lơi bông,
Xinh thay diện mạo anh hùng!
Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến không chỉ là những vần thơ giải trí, mà còn là những bài học sâu sắc về cuộc sống và con người. Theo đánh giá của nhiều nhà phê bình văn học, thơ trào phúng Nguyễn Khuyến là một phần không thể thiếu của văn học Việt Nam (X cung cấp Y → Theo đánh giá của nhiều nhà phê bình văn học, thơ trào phúng Nguyễn Khuyến là một phần không thể thiếu của văn học Việt Nam).
4. Hòa Mình Vào Thế Giới Thơ Trào Phúng Hồ Xuân Hương: Nữ Sĩ Tài Ba Với Tiếng Cười Phá Cách
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm” với những vần thơ vừa trào phúng, vừa trữ tình, thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ đối với xã hội phong kiến đầy bất công. Thơ của bà không chỉ gây cười, mà còn khiến người đọc phải suy ngẫm về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.
4.1 “Đưa Đò”
Bài thơ “Đưa Đò” là một ví dụ điển hình cho phong cách trào phúng của Hồ Xuân Hương:
Chú lái kia ơi, biết chú rồi,
Qua sông rồi lại đấm ngay bồi!
Chèo ghe vừa khỏi dòng sông ngược,
Đấm cộc ngay vào ngấn nước xuôi.
Mới biết lên bờ đã vỗ đít,
Nào khi giữa khúc đã co vòi.
Chuyến đò nên nghĩa sao không nhớ?
Sang nửa hay là một chuyến thôi?
4.2 “Vịnh Đời Người”
“Vịnh Đời Người” lại là một cái nhìn sâu sắc về cuộc sống ngắn ngủi và những giá trị phù du:
Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày
Dầu có ngàn vàng khó đổi thay
Trong núi ngàn năm cây vẫn có
Dưới trần trăm tuổi dễ không ai
Nghĩ đường danh lợi lòng thêm chán
Thấy kẻ gian ngoan bụng lại đầy
Đắng xót ghê thay mùi tục lũy
Bực mình theo Cuội tới cung mây
4.3 “Đá Ông Bậm”
“Đá Ông Bậm” lại là một sự châm biếm về những tượng đá vô tri vô giác:
Khéo khéo bày trò tạo hóa công
Ông Bậm đã vậy lại Bậm ông
Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
Thớt dưới sương pha đượm má hồng
Gan nghĩa dãi ra cùng chị Nguyệt
Khối tình cứ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già giặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
4.4 “Tát Nước”
“Tát Nước” lại là một bức tranh sinh động về cuộc sống lao động của người phụ nữ nông thôn:
Đang cơn nắng cực chửa mưa tề,
Rủ chị em ra tát nước khe.
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm,
Lênh đênh một ruộng bốn bề be.
Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa,
Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve.
Mải việc làm ăn quên cả mệt,
Dạng hang một lúc đã đầy phè.
4.5 “Chế Sư”
“Chế Sư” lại là một lời phê phán sâu cay về những nhà sư giả dối:
Chẳng phải Ngô chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc áo không tà.
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
Vải nấp sau lưng sáu bảy bồ.
Khi cảnh khi tiu khi chũm choẹ,
Giống hình giống hỷ giống hi ha.
Tu lâu có lẽ lên sư cụ,
Ngất nghểu tòa sen nó đó mà.
4.6 “Đánh Cờ”
“Đánh Cờ” lại là một sự ẩn dụ về cuộc đời và những trò đời:
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
Đốt đèn lên đánh cuộc cờ người.
Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
Cấm ngoại thủy không ai được biết.
Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
Để đôi ta quyết liệt một phen.
Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
Hai quân ấy chơi nhau đã lữa.
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa,
Thiếp vội vàng vén phứa tĩnh lên.
Hai xe hà, chàng gác hai bên,
Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
Đem tốt đầu dú dí vô cung,
Thiếp đang mắc nước xe lồng,
Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu,
Thua thì thua quyết níu lấy con.
Khi vui nước nước non non,
Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.
Thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương không chỉ là tiếng cười, mà còn là tiếng khóc cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công. Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Giới và Xã hội năm 2022, thơ Hồ Xuân Hương có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong xã hội Việt Nam (X cung cấp Y → Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Giới và Xã hội, năm 2022, thơ Hồ Xuân Hương có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về bình đẳng giới trong xã hội Việt Nam).
5. Thơ Trào Phúng Tú Mỡ: Ngòi Bút Châm Biếm Sắc Sảo Của Thời Đại
Tú Mỡ, tên thật là Hồ Trọng Hiếu, là một nhà thơ trào phúng xuất sắc của Việt Nam. Thơ của ông không chỉ mang tính giải trí, mà còn chứa đựng những phê phán sâu sắc về xã hội đương thời, đặc biệt là những vấn đề như tham nhũng, đạo đức giả, và sự bất công.
5.1 “Ông Trẻ Già”
“Ông Trẻ Già” là một bức tranh biếm họa về những kẻ đạo mạo giả tạo:
Ngược đời! Có lắm hạng “ông ranh”
Đạo mạo làm ra mặt lão thành!
Trước mắt long lanh đôi kính trắng,
Dưới cằm lún phún sợi râu xanh.
Đứng ngồi khệnh khạng oai nghiêm giả,
Ăn nói màu mè đạo đức tuênh!
Động hé môi ra là…thở hắt,
Than cho thế thái với nhân tình.
5.2 “Gây Quan”
“Gây Quan” lại là một lời châm biếm về chế độ thi cử và nạn mua quan bán chức:
Mỗi năm nhà nước mở khoa thi
Để kén trong trung bắc lưỡng kỳ
Lấy mặt sỏi sành ra giúp việc
Bổ làm tập sự ngạch quan chi
Mỗi năm các cậu lớp tân khoa
Sung sướng bằng xưa đỗ thám hoa
Tuy chẳng vinh quy, cỗ võng lọng
Cũng là lừng lẫy khắp gần xa
Quảng cáo công khôn, các nhật trình
Đăng tên, đăng tuổi, lại đăng hình,
Làm như các cậu “quan non” ấy
Là những kỳ đồng mới tái sinh
Trong làng trưởng giả những cô nào
Sẵn mồi nhưng chưa có kẻ đào
Mấp máy hòng lên bia lớn tắt
Mơ màng của dẫn lại tay trao
Cụ thượng Quỳ ta cũng sướng ran
Xoa tay hỉ hả cái gan vàng
Mừng cho nước Việt còn cơ khá
Vì chẳng bao giờ tiệt giống quan.
5.3 “Còn Say”
“Còn Say” lại là một lời phê phán về những kẻ sống ảo tưởng, xa rời thực tế:
“Nhắn bác Tản Đà”
Đã lâu, bác mới ra đời,
Tưởng rằng gột óc theo thời duy tân.
Nào ngờ bác vẫn say lăn,
Lè nhè vẫn giọng thơ văn trái mùa.
Vẫn còn mộng mị, mơ hồ,
Người đời vui sống, bác ngỡ chiêm bao,
Người đời hoạt động xôn xao,
Bác về triết lý thanh cao: bác lười!
Ngồi dưng nổi bệnh chán đời.
Bác buồn trơi gió, rồi trơi lại mưa!
Giải buồn chén tít say sưa,
Chai con chai bố vẫn chưa hết buồn!
Rượu vào, rỗng rỗng thơ tuôn,
Miệng ngâm sặc sụa hơi cồn, mùi men,
Bác rằng: khách tục bon chen,
Lao tâm, lao lực, thấp hèn bác thương.
Đời rằng: bác dở, bác ương,
Giả danh ẩn dật là phương bợm đời.
Bác rằng: chữ thời quí chi.
Lợi, danh, hão cả! Ham gì sống dai?
Đời rằng: thuận với lẽ trời,
Sống mà gánh vác việc đời mới hay.
Còn như sống để mà… say.
Hỏi ai vất vưởng bấy nay làm gì?
Rung đùi, rượu nốc tì tì,
Người ta tỉnh, bác li bì vẫn mê!
5.4 “Khoe Lười”
“Khoe Lười” lại là một lời tự trào về thói lười biếng của bản thân:
Anh em chớ bảo ta lười,
Làm việc cho hay phải thức thời.
Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí,
Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.
Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,
Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.
Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu,
Anh em chớ bảo ta lười.
5.5 “Sư Cô Ở Cữ”
“Sư Cô Ở Cữ” lại là một lời châm biếm về những chuyện đời trớ trêu trong chốn thiền môn:
Chùa Yên Lạc, phủ Khoái Châu
(Tên sao khéo đặt nên câu hữu tình!)
Có bã sư trẻ xinh xinh,
Tuổi chừng ba chục xuân xanh đang vừa.
Vẻ người bã bỉnh dễ ưa,
Nõn nà tay ngọc, mợn mơ má hồng.
Tuy duyên lỡ vẻ mặn nồng,
Sư bã vẫn muốn hết lòng chân tu.
Nhưng rồi một sáng mùa thu,
Người ta thấy vị ni cô sượng sùng.
Bụng đeo cái trống cã rùng,
Đến nhà thương để tìm phòng khai hoa.
Các ngài Bồ Tát, Thích Ca,
Độ trì phù hộ sư bã trẻ son.
Đẻ ra một cậu sư con,
A Di Đà Phật! Mẹ tròn con vuông.
Đẻ xong từ giã nhà thương,
Gởi con nhà nước lên đường lại tu.
Dốc lòng tu… hú, tu… mu,
Tại miền khoái lạc, cảnh chùa yên vui.
Phật thương rồi cứ quen mùi,
Sẽ năm một, ba năm đôi xồn xồn.
Sinh năm đẻ bảy sư con,
Càng ngày quả phúc càng tròn hơn xưa.
Ngẫm ngày mùng tám tháng tư,
Bụt còn đẻ, nữa là sư?! Ngượng gì!
5.6 “Tứ Đại Của Bã Lớn”
“Tứ Đại Của Bã Lớn” lại là một sự mỉa mai về những kẻ cậy quyền cậy thế:
Vừa rồi thống Diệm mới phong cho
Thím nó (tức là vợ chú Nhu)
Cái tước “Cộng hòa bã lớn nhất”
Để dương danh giá của… bã to…
Một là cái bộng của bã to,
Phềnh phệ y như cái bộng bò
Vắt khổ dân cày bã ních bẩm
Bao năm bèo bọt tức cùng tô.
Hai là cái mặt của bã to
Phèn phẹt y như mặt hổ phù
Bác thống cho ra làm đại diện
Còn trơ hơn thớt, cợm hơn mo.
Ba là cái miệng của bã to
Xoạc tận mang tai tựa miệng sò
Quàng quạc kêu gào xui phụ nữ
Bán mình đăng lính với đi phu.
Bốn là “nhân vị” của bã to,
Việc “ngoại giao” mần giúp bác Ngô,
Rất được vừa lòng quan chủ Mỹ
Ngày đêm khăng khít bợ cơ đồ.
Bác nó làm to, thím cũng to
Bốc nhau thối hoắc nhặt nhồi nhiều trò
Đúng như cửa miệng người ta mỉa
“Một đứa làm quan cả họ nhờ!”
Thơ trào phúng của Tú Mỡ không chỉ là tiếng cười, mà còn là tiếng chuông cảnh tỉnh về những vấn đề nhức nhối của xã hội. Theo nhận định của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2021, Tú Mỡ là một trong những nhà thơ trào phúng tiêu biểu nhất của Việt Nam (X cung cấp Y → Theo