Ẩn dụ và hoán dụ là hai biện pháp tu từ quen thuộc trong văn học, tuy nhiên, không ít người vẫn còn nhầm lẫn giữa chúng. Để giúp bạn phân biệt rõ ràng “ẩn Dụ Khác Gì Hoán Dụ”, Xe Tải Mỹ Đình (XETAIMYDINH.EDU.VN) sẽ cung cấp một cái nhìn chi tiết về sự khác biệt giữa hai biện pháp này, từ khái niệm, đặc điểm đến cách ứng dụng. Hiểu rõ về ẩn dụ và hoán dụ giúp bạn cảm thụ văn học sâu sắc hơn và vận dụng linh hoạt vào giao tiếp hàng ngày, đồng thời, nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ, phát triển tư duy sáng tạo, mở rộng vốn từ vựng.
1. Điểm Giống Nhau Giữa Ẩn Dụ Và Hoán Dụ
Về cơ bản, ẩn dụ và hoán dụ có những điểm tương đồng đáng chú ý, khiến nhiều người dễ nhầm lẫn:
- Cùng sử dụng tên gọi của sự vật, hiện tượng này để chỉ sự vật, hiện tượng khác. Cả hai biện pháp đều không gọi trực tiếp đối tượng mà dùng một đối tượng khác có liên quan để biểu thị. Về hình thức, hoán dụ và ẩn dụ đều có một vế biểu hiện, còn vế được biểu hiện thì ẩn đi.
- Đều được sử dụng rộng rãi trong nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau, đặc biệt là trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Tính biểu tượng và khả năng gợi hình, gợi cảm của chúng làm tăng giá trị thẩm mỹ cho tác phẩm.
2. Điểm Khác Nhau Giữa Ẩn Dụ Và Hoán Dụ
Sự khác biệt giữa ẩn dụ và hoán dụ nằm ở mối quan hệ giữa hai đối tượng được so sánh:
2.1. Ẩn Dụ
- Mối quan hệ giữa hai sự vật, hiện tượng có sự tương đồng, tức là giống nhau về một phương diện nào đó như hình thức, cách thức thực hiện, phẩm chất, hoặc cảm giác.
- Ẩn dụ là tạm thời biểu hiện mối quan hệ giống nhau giữa hai sự vật. Cơ sở của ẩn dụ dựa trên sự liên tưởng giống nhau của hai đối tượng bằng so sánh ngầm. Về mặt nội dung, ẩn dụ phải rút ra nét cá biệt giống nhau giữa hai đối tượng vốn khác loại, không cùng bản chất. Nét giống nhau là cơ sở để hình thành ẩn dụ, đồng thời cũng là hạt nhân nội dung của ẩn dụ.
- Chức năng chủ yếu của ẩn dụ là biểu cảm. Hiện nay, ẩn dụ được dùng rộng rãi trong nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau, không những trong văn xuôi nghệ thuật mà còn trong phong cách chính luận, nhưng nhiều nhất vẫn là trong thơ ca.
Ví dụ:
“Trăm năm đành lỗi hẹn hò/ Cây đa bến cũ con đò khác đưa” (Ca dao). Trong ví dụ này, cây đa bến cũ có những nét tương đồng với những kỷ niệm đẹp, con đò khác đưa có ý nghĩa tương tự việc cô gái đã đi lấy người con trai khác làm chồng, đã thay đổi, xa nhau về tình cảm. Thông qua nghệ thuật ẩn dụ, tác giả dân gian đã chọn được hình ảnh quen thuộc, gợi nhớ diễn đạt được một lời oán trách kín đáo.
“Dưới trăng quyên đã gọi hè/ Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (Nguyễn Du). Trong ví dụ này, tác giả đã sử dụng hình ảnh lửa lựu để ẩn dụ cho việc mùa hè đến (cùng tính chất nóng). Đây là việc tác giả so sánh ngầm giữa tính chất của lửa và tính chất của mùa hè với nhau, tạo nên liên tưởng thú vị.
2.2. Hoán Dụ
- Mối quan hệ giữa hai sự vật, hiện tượng có mối quan hệ tương cận, tức là đi đôi, gần gũi với nhau (bộ phận – toàn thể; vật chứa đựng – vật bị chứa đựng; dấu hiệu của sự vật – sự vật; cụ thể – trừu tượng).
- Hoán dụ biểu thị mối quan hệ gần gũi, có thực giữa đối tượng biểu hiện và đối tượng được biểu hiện. Hoán dụ không thể hiện sự giống nhau giữa hai đối tượng được đưa ra mà chỉ thể hiện sự đi đôi, sóng đôi, liên tưởng đến nhau giữa hai đối tượng.
- Cơ sở của hoán dụ dựa trên sự liên tưởng kế cận của hai đối tượng mà không so sánh. Về mặt nội dung, cơ sở để hình thành hoán dụ là sự liên tưởng phát hiện ra mối quan hệ khách quan có thực, có tính chất vật chất hoặc logic giữa các đối tượng.
- Chức năng chủ yếu của hoán dụ là nhận thức. Nó được dùng trong nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau, nhưng thường đắc dụng trong văn xuôi nghệ thuật, vì sức mạnh của nó vừa ở tính cá thể hóa và tính cụ thể, vừa ở tính biểu cảm kín đáo và sâu sắc.
Ví dụ:
“Kháng chiến ba ngàn ngày không nghỉ/ Bắp chân đầu gối vẫn săn gân” (Tố Hữu). Trong câu thơ này, hình ảnh “bắp chân đầu gối vẫn săn gân” không chỉ một thực tế về cơ thể của các anh lính mà nhằm thể hiện ý nghĩa ca ngợi về ý chí chiến đấu của các anh lính bộ đội cụ Hồ là một ý chí dẻo dai, bền bỉ. Đây là hai hình ảnh gần gũi, đi đôi với nhau, được suy ra từ một sự liên tưởng phát hiện, chứ không hoàn toàn đồng nhất như tính chất của ẩn dụ.
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào” (Nguyễn Bính). Ở câu thơ này, câu đầu nhà thơ sử dụng nghệ thuật hoán dụ khi dùng “thôn Đoài” và “thôn Đông” nhưng ám chỉ đến “người ở thôn Đoài” và “người ở thôn Đông”. Ở câu thơ dưới, “cau” và “trầu” tương đồng với những người đang yêu nhau, đang nhớ nhau, tạo nên cách nói lắp lửng, thập thò, bóng gió của những đôi lứa yêu nhau, nhưng còn ngại ngùng chưa dám ngỏ lời. (ngoài nghệ thuật ẩn dụ và hoán dụ, việc nói “thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” có thể được coi là việc tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa).
2.3. Bảng So Sánh Tóm Tắt
Tiêu chí | Ẩn dụ | Hoán dụ |
---|---|---|
Mối quan hệ | Tương đồng (giống nhau) | Tương cận (gần gũi, đi đôi) |
Cơ sở tạo thành | So sánh ngầm giữa hai đối tượng giống nhau | Liên tưởng kế cận |
Chức năng chủ yếu | Biểu cảm | Nhận thức |
Phân loại cụ thể | Hình thức; cách thức thực hiện; phẩm chất; chuyển đổi cảm giác | Bộ phận – toàn thể; vật chứa – vật bị chứa; dấu hiệu – sự vật; cụ thể – trừu tượng |
3. Tiêu Chí Phân Biệt Ẩn Dụ Và Hoán Dụ
Để phân biệt ẩn dụ và hoán dụ, học sinh dựa vào ba tiêu chí sau:
3.1. Tiêu Chí Khái Niệm
Xem xét câu văn, câu thơ được đưa ra có đối tượng nào được nhắc đến, đối tượng nào là đối tượng được ngầm ẩn đằng sau. Sau đó, học sinh tìm hiểu quan hệ giữa hai đối tượng này là mối quan hệ tương đồng, giống nhau (thể hiện một trong bốn kiểu: hình thức; cách thức thực hiện; phẩm chất; cảm giác) hay là mối quan hệ tương cận, gần gũi, đi đôi cùng nhau (thể hiện một trong bốn kiểu đi cùng nhau là: bộ phận – toàn thể; vật chứa đựng – vật bị chứa đựng; dấu hiệu của sự vật – sự vật; cụ thể – trừu tượng).
Nếu giữa hai đối tượng (miêu tả và được miêu tả, ngầm ẩn đằng sau) là mối quan hệ tương đồng (không trải qua sự liên tưởng, suy tưởng) thì kết luận là ẩn dụ, nếu là mối quan hệ tương cận, gần gũi, đi đôi cùng nhau (cần có sự liên tưởng kế cận) thì là hoán dụ.
Ví dụ: Xét câu văn “Dân tộc Việt Nam nay lại được đặt trước hai con đường: một là khoanh tay cúi đầu trở lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập” của Hồ Chí Minh, chúng ta nhận thấy: Từ “khoanh tay cúi đầu” và tính chất “hèn hạ, kém cỏi, chấp nhận thua cuộc” là hai điều có mối quan hệ tương đồng với nhau, không cần trải qua sự suy tưởng, do đó kết luận đây là việc nhà văn sử dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ.
Một ví dụ khác: “Hỡi cô yếm thắm loã xoã/ Lại đây đập đất trồng cà với anh”. Trong câu ca dao này, hình ảnh “cô yếm thắm loã xoã” là hình ảnh được đối chiếu để mang ý nghĩa chỉ những cô gái hay ăn diện, rong chơi. Với ý nghĩa như trên, chỉ bằng dấu hiệu của cô gái (ăn mặc loã xoã) mà nhà thơ gợi dẫn đến phẩm chất của cô (ăn diện), đầy là hai điều có mối quan hệ tương cận, gần gũi, cần phải trải qua bước liên tưởng kế cận mới thấy được. Do đó, đây là câu ca dao mà nhân dân ta đã khéo léo sử dụng biện pháp nghệ thuật hoán dụ.
3.2. Tiêu Chí Phân Loại
Để rõ ràng về bản chất của chi tiết được sử dụng trong văn bản nghệ thuật là hoán dụ hay ẩn dụ, cách tốt nhất là học sinh tự trả lời câu hỏi: Nếu là ẩn dụ thì đây là loại ẩn dụ nào trong bốn kiểu ẩn dụ? Còn nếu như là hoán dụ thì đây là loại hoán dụ nào trong bốn kiểu hoán dụ?
Trả lời và giải thích một cách rõ ràng về loại ẩn dụ/ hoán dụ đã nêu, học sinh sẽ có cơ sở rõ ràng về kết luận của mình, tránh suy đoán theo cảm tính.
3.3. Tiêu Chí Nội Dung, Giá Trị Của Chi Tiết Nghệ Thuật
Tiêu chí này cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác định biện pháp thuật mà nhà thơ sử dụng là ẩn dụ hay hoán dụ.
Ví dụ: Xét ví dụ sau: “Hươu cao cổ/ Có móc câu/ Gật gật đầu/ Trông ngộ quá/ Cho nắm lá/ Hươu không ăn/ Hươu vững tâm/ Làm việc nặng/ Yêu bến cảng/ Có bầy hươu/ Sớm lại chiều/ Cẩu hàng hóa” (Định Hải – Hươu cao cổ). Đối với ví dụ này, hươu cao cổ là hình ảnh ẩn dụ cho chiếc cần cẩu, cách thức ẩn dụ là ẩn dụ hình thức (chiếc cần cẩu trông giống như hươu cao cổ). Xét về mặt nội dung của bài thơ, đối tượng hướng đến là trẻ em (cách ví von chiếc cần cẩu là chú hươu cao cổ là cách ví von hồn nhiên, ngộ nghĩnh dành cho trẻ thơ, khiến câu thơ trở nên dễ hiểu hơn). Nếu hiểu như vậy, câu thơ sẽ phù hợp hơn với đối tượng (không hiểu bài thơ sử dụng biện pháp hoán dụ, loại hoán dụ là loại lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật thì sẽ khiến câu thơ trở nên phức tạp, khó hiểu, khó giải thích về tư tưởng và dụng ý của tác giả)
Xét các ví dụ tương tự khác: (1) “Nếu được sống một nghìn cuộc đời/ Với một trái tim như thế/ Buốt nhức vì giận hờn/ vì yêu/ vì nhớ/ Thì tôi chẳng bao giờ đổi/ Trái tim buốt nhức này/ để lấy một trái tim bình yên khác” (Lâm Thị Mỹ Dạ). (2) “Trái tim đừng lúc nào tĩnh vật/ Mà thiết tha đời như ngọn cây” (Lâm Thị Mỹ Dạ). Trong hai ví dụ này, hình ảnh trái tim là hình ảnh khiến học sinh băn khoăn là hình ảnh ẩn dụ phẩm chất hay là hình ảnh hoán dụ lấy dấu hiệu của sự vật để chỉ sự vật. Khi hiểu theo trường hợp thứ hai, người đọc nhận thấy hợp lí với nội dung mà nhà thơ muốn phản ánh hơn. Bên cạnh mối quan hệ giữa “trái tim” và “đời sống tình cảm của người phụ nữ” là mối quan hệ tương cận, ở đây người viết muốn phản ánh không phải tính chất, phẩm chất của trái tim mà hơn cả là nhà thơ muốn khẳng định tính chất phong phú, phức tạp, nhiều cung bậc phong phú của tâm hồn người phụ nữ.
4. Bài Tập Giúp Phân Biệt Ẩn Dụ Và Hoán Dụ
Dựa vào phần phân biệt ẩn dụ, hoán dụ kể trên, học sinh hãy xác định và nhận diện ở những phần in đậm dưới đây đâu là câu văn nhà văn sử dụng biện pháp nghệ thuật hoán dụ, đâu là câu văn nhà văn sử dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ.
(1) Hỡi anh đi đường cái quan
Em xem khăn gói anh mang những gì?
Hay là giận vợ ra đi,
Anh cứ thú thật em thì mang cho
(Ca dao)
(2) Hội trường đứng dậy vỗ tay đón chào diễn giả đang đến với niềm hưng phấn vô ngần.
(3) Em đi, như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết
Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc
Em ở, trưa trời ở
Nắng sáng màu xanh tre
Tình em như sao khuya
Rải hạt vàng chi chít.
(Chế Lan Viên)
(4) Đàn buồn, đàn lặng ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
(5) Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt…
(Xuân Diệu, Biển)
(6) Mẹ ơi, con bận trăm công nghìn việc chứ có phải là con rảnh rỗi đâu
(7) Tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biếc mây
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy
(Thanh Thảo, Đàn ghi-ta của Lorca)
(8). Ôi trảng dầu những chiếc lá khô cong
mỗi bước chân rì rầm tiếng nói
Đêm hành quân qua nhiều đống lửa
Bùng tự nhiên ngay giữa lối mòn
thế hệ chúng tôi bùng ngọn lửa chính mình
Soi sáng đường đi tới
Có những đêm mưa quất bốn bề
Giữa Tháp Mười không mái lá nương che
Nước đã giặt phải đẩy xuồng băng trấp
Lúc ấy chân trời là lưng người đi trước
Vụt loé lên qua ánh chớp màn mưa
(9). Cả năm châu lục đều hưởng ứng
(10). Hái một nụ thơm em
Là bước đầu biết khổ
Hái thêm lá em mở
Đau suốt đời ngẩn ngơ
Khi vẫn là hai bờ
Một dòng sông ngang trái.
(Hoàng Cầm,Duyên kiếp)
(11). Chiều êm đềm, người thanh thản lại qua,
Cây thốt nốt rắc nắng vàng xuống cỏ
Lũ trẻ gấp những tàu bay nhỏ
Thả la đà trên mặt cỏ xanh
(Đào Ngọc Phong, Tượng đài chiến sĩ Việt Nam)
(12). Không, không thể ở bên này được
Ngày mai, ngày mai, bọn giặc
Cơn lũ gầm lên, thách thức
(Trần Nhật Thu, Nhịp cầu em gái)
Đáp án:
(Lưu ý: chỉ nên xem sau khi đã thực hiện xong bài tập vào vở bài tập)
- Những câu văn sử dụng nghệ thuật ẩn dụ: (3), (4), (5), (10), (11)
- Những câu văn sử dụng nghệ thuật hoán dụ: (1), (2), (6), (7), (8), (9)
Học sinh tự giải thích nguyên nhân tại sao lại là hoán dụ, ẩn dụ dựa vào các tiêu chí đã phân tích ở trên: khái niệm, phân loại và nội dung câu thơ, tư tưởng mà nhà thơ muốn phản ánh.
Thông qua bài viết này, Xe Tải Mỹ Đình hy vọng bạn đã hiểu rõ hơn về sự khác biệt giữa ẩn dụ và hoán dụ. Nếu bạn còn bất kỳ thắc mắc nào hoặc muốn tìm hiểu thêm về các vấn đề liên quan đến văn học và ngôn ngữ, hãy truy cập XETAIMYDINH.EDU.VN để được tư vấn và giải đáp nhé.