Trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy gian khổ, để đảm bảo hậu cần cho chiến trường miền Nam, tuyến đường Trường Sơn huyền thoại đã ra đời. Cùng với những con đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử, ít ai biết rằng, trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa còn tồn tại một phương thức vận tải vô cùng độc đáo và táo bạo: Xe Tải Trường Sơn đi Dây. Câu chuyện về những chiếc xe tải “bay” trên dây cáp vượt sông, vượt suối này đến nay vẫn còn là một bí ẩn thú vị, ít được biết đến.
Để làm sáng tỏ phương thức vận tải độc đáo này, chúng tôi xin trân trọng ghi lại lời kể của Đại tá Nguyễn Trọng Quyến, người trực tiếp tham gia thử nghiệm lái xe trên dây cáp, đồng thời tham khảo ý kiến của Thiếu tướng Lê Mã Lương, nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Ý tưởng táo bạo từ chuyến công tác nước ngoài
Vào đầu năm 1965, Bộ Quốc phòng cử Trung tướng Đinh Đức Thiện, lúc bấy giờ là Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, sang công tác tại Trung Quốc. Tại đây, Trung tướng Đinh Đức Thiện đã có dịp tham quan những cây cầu dây cáp được xây dựng trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật. Những chiếc cầu này bắc ngang qua những dãy núi cao và những dòng sông hiểm trở, tạo thành một hệ thống giao thông vận tải vô cùng hiệu quả.
Khi trở về nước, Trung tướng Đinh Đức Thiện đã trình bày ý tưởng về việc áp dụng phương pháp vận tải bằng cầu dây cáp tại Việt Nam, đặc biệt là trên tuyến đường Trường Sơn. Ý tưởng này nhanh chóng được Viện Kỹ thuật Giao thông và một số trường đại học lớn ở Hà Nội nhiệt tình hưởng ứng. Các nhà khoa học và kỹ sư đã bắt tay vào nghiên cứu, với mong muốn hiện thực hóa phương pháp vận tải “có một không hai” này, góp phần giải quyết bài toán hậu cần trên chiến trường Trường Sơn.
Thử nghiệm khắc nghiệt và những bài học xương máu
Đại tá Nguyễn Trọng Quyến, lúc đó là giáo viên khoa xe máy của trường sĩ quan hậu cần, đã được lựa chọn là người lái xe đầu tiên thử nghiệm phương pháp vận tải mới này. Ông hồi tưởng lại những ngày đầu tiên đầy khó khăn: “Lần đầu tiên, tôi cùng đồng đội thử nghiệm lái xe trên cáp tại khu vực cầu Diễn, bắc qua sông Nhuệ. Các kỹ sư cho đóng trụ bê tông sâu 5-6 mét, sau đó dùng tời kéo cáp, loại cáp lớn như cổ tay, căng ngang sông. Độ võng của dây cáp được tính toán kỹ lưỡng bởi các kỹ sư. Tôi lái một chiếc xe tải GAZ-63 của Liên Xô, sử dụng hệ thống bánh puly trượt trên cáp, tương tự như bánh tàu hỏa chạy trên đường ray.”
“Ban đầu, chúng tôi nghĩ rằng chỉ cần puly định vị trên cáp là xe có thể trượt êm ái sang bờ bên kia. Nhưng thực tế, xe bị đánh võng rất mạnh. Từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1965, tôi liên tục thử nghiệm với hai phương án. Phương án đầu tiên là dùng puly như đã nói, phương án thứ hai là thiết kế sàn trượt cho xe có tải trọng từ 4 tấn trở lên. Xe tải trọng 1 tấn dùng puly phù hợp với địa hình thoáng đãng, khó bị máy bay trinh sát địch phát hiện vì chỉ thấy hai vệt dây mảnh. Xe trọng tải lớn hơn dùng sàn trượt thích hợp với địa hình rừng cây rậm rạp, khó bị phát hiện hơn.”
Tháng 6 năm 1965, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Giao thông Phan Trọng Tuệ đã mời các thành viên Hội đồng Chính phủ và thủ trưởng các bộ đến nghiệm thu buổi thử nghiệm cuối cùng, chuẩn bị cho kế hoạch áp dụng rộng rãi trên tuyến đường Trường Sơn. Địa điểm được chọn cho buổi thử nghiệm quyết định này là khu vực Canh Diễn, cách cầu Diễn khoảng 1km trên sông Nhuệ.
Đại tá Nguyễn Trọng Quyến nhớ lại khoảnh khắc sinh tử: “Khoảng 8 giờ sáng, Phó Thủ tướng bảo tôi lái thử cho mọi người xem. Anh Đặng Văn Thông, Viện trưởng Viện Giao thông, chỉ vào đồng hồ đo độ võng của dây cáp và dặn dò: ‘Khi lái, nếu xe nghiêng dưới 15 độ thì cứ đi tiếp. Nếu xe nghiêng từ 16 đến 17 độ thì anh và phụ xe phải nhảy xuống sông để anh em công binh trực vớt lên’.”
“Tôi lái được khoảng 1/4 quãng đường cáp thì đồng hồ báo độ nghiêng 10 độ, đến 1/3 đường thì lên 15 độ. Nhìn gương chiếu hậu, đồng chí phụ xe Nguyễn Văn Xây hốt hoảng: ‘Anh ơi! Trên bờ, mọi người phất cờ ra lệnh mình phải nhảy!’. Tôi trấn an: ‘Anh em mình đang đi trên miệng tử thần. Nhảy xuống xe lật đè chết ngay. Cứ kệ nó, đến đâu thì liệu đến đó.’ Vừa dứt lời thì xe lật nhào xuống sông. 3 tấn bê tông đổ hết, xe mất tải trọng lật tiếp ba vòng. May mắn cửa xe đóng kín nên nước chỉ phun từ từ qua kẽ hở. Tôi và anh Xây ngồi nhìn cái chết đến gần trong ca-bin. Trong khoảnh khắc hy vọng mong manh, tôi bảo anh Xây: ‘Anh và tôi nằm xuống, chờ áp suất trong ca-bin cân bằng với áp suất nước bên ngoài rồi đạp cửa phi ra…’”
Những cây cầu dây cáp Trường Sơn đi vào lịch sử
Sau sự cố suýt chết đó, các nhà khoa học đã tập trung phân tích nguyên nhân thất bại. Hóa ra, trụ bê tông bị lún nghiêng do trận mưa đêm trước đó, khiến xe bị trượt và không chịu được tải trọng, gặp gió lắc lư, trụ cầu càng nghiêng, dây cáp càng chùng và xe rơi xuống.
Bài học xương máu này đã giúp các kỹ sư hoàn thiện thiết kế cầu dây cáp. Các trụ cầu được đổ bê tông cốt thép chắc chắn hơn, độ giãn của dây cáp được kiểm soát chặt chẽ trong giới hạn cho phép. Ngày 11 tháng 11 năm 1965, dưới sự chứng kiến của các quan chức Chính phủ, Đại tá Nguyễn Trọng Quyến đã thực hiện thành công buổi thử nghiệm quyết định.
Chính phủ quyết định triển khai lắp đặt cầu dây cáp cho xe ô tô chạy bằng puly đầu tiên tại Km 0 (Đắc Krông, Quảng Trị). Tiếp sau đó, hàng loạt cây cầu kiểu “khác thường” này đã được nhân rộng trên khắp tuyến đường Trường Sơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển vũ khí, lương thực, quân trang quân dụng từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Những cây cầu xe tải trường sơn đi dây đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước năm 1975.
Nhân chứng lịch sử và những ký ức không quên
Câu chuyện về xe tải trường sơn đi dây là một minh chứng cho sự sáng tạo, ý chí quyết tâm và tinh thần dũng cảm của quân và dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, phương thức vận tải độc đáo này ít được biết đến rộng rãi.
Thiếu tướng Lê Mã Lương, người từng là đồng đội của Đại tá Nguyễn Trọng Quyến tại Trung đoàn 24, Sư đoàn 304, chia sẻ: “Năm 1967, khi hành quân qua Khe Sanh, tôi đã tận mắt chứng kiến một chiếc xe tải trọng tải khoảng 1 tấn bò rất chậm trên dây cáp qua suối. Hỏi ra mới biết đó là phương pháp vận tải quân sự kiểu mới, chỉ áp dụng ở khu vực Tây Quảng Bình và Bắc Quảng Trị. Về sau, do hiệu quả không cao, chỉ chở được một số lượng hàng hóa hạn chế nên phương pháp này dần dần không được sử dụng nữa.”
Thiếu tướng Lê Mã Lương cũng bày tỏ sự bất ngờ khi được xem những bức ảnh về Đại tá Nguyễn Trọng Quyến lái xe trên dây cáp: “Đúng là công trình này tôi chưa từng thấy trưng bày ở bất kỳ bảo tàng nào. Chúng tôi sẽ liên hệ với đồng chí Quyến, tiến tới lập hồ sơ, scan ảnh cỡ lớn và có thể sẽ tái dựng lại công trình này tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.”
Câu chuyện về xe tải trường sơn đi dây không chỉ là một phần lịch sử độc đáo mà còn là nguồn cảm hứng lớn lao cho thế hệ sau, nhắc nhở về tinh thần sáng tạo và ý chí vượt khó của cha ông ta. Để lại dấu ấn trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại, những chiếc xe tải trường sơn đi dây xứng đáng được ghi nhớ và tôn vinh như một biểu tượng của sự thông minh và lòng quả cảm Việt Nam.