Trong dòng chảy lịch sử Việt Nam, sông Hiền Lương và cầu Hiền Lương không chỉ là địa danh mà đã hóa thành biểu tượng, khắc sâu vào tâm khảm mỗi người dân. Nơi đây từng là ranh giới chia cắt đất nước, chứng kiến bao nỗi đau thương, mất mát, nhưng cũng là nơi khơi dậy khát vọng hòa bình, thống nhất non sông. Bài viết này, Xe Tải Mỹ Đình xin gửi đến độc giả một góc nhìn sâu sắc hơn về Hiền Lương, không chỉ là di tích lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng bất tận, trên hành trình phát triển của đất nước hôm nay, nơi những đoàn Hiền Xe Vân Tải nối liền mạch máu kinh tế.
Dòng Sông Cảm Hứng Bất Tận
Bước qua cầu Hiền Lương hôm nay, ta thấy một Vĩnh Linh trù phú, khang trang, rộng dài, càng gợi nhớ về dòng sông lịch sử – dòng sông nhân chứng cho một thời kỳ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc.
Trong những năm tháng đất nước bị chia cắt, những vần thơ đã ra đời, lay động trái tim hàng triệu người, khắc họa nỗi niềm xa cách:
Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị
Tận chân trời mây núi có chia đâu
(Tế Hanh)
Xa nhau chỉ một mái chèo
Mà đi trăm núi vạn đèo tới đây
(Thanh Hải)
Những câu thơ thấm đẫm nỗi nhớ thương, khắc khoải về một đất nước thống nhất, về tình người không thể chia cắt. Tiếng ngâm thơ Châu Loan, nghệ sĩ ưu tú quê Vĩnh Linh, trên Đài Tiếng nói Việt Nam, càng làm da diết thêm nỗi niềm Bắc – Nam cách trở trong lòng người nghe.
Sông Hiền Lương còn là nguồn cảm hứng cho văn học nghệ thuật. Tiểu thuyết “Phía nam sông Bến Hải” của nhà văn Liên Xô Mikhail ĐômôGatxkikh, một phóng viên TASS từng công tác tại Việt Nam, đã ra đời, khắc họa chân thực cuộc sống và con người nơi giới tuyến.
Mới đây, khi đến cầu Hiền Lương, du khách không khỏi xúc động khi nghe hướng dẫn viên ngân nga “Câu hò bên bờ Hiền Lương” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp. Giai điệu da diết, lời ca sâu lắng đã trở thành tiếng lòng của cả dân tộc một thời.
…Hiền Lương ơi! Vẫn nhớ ngày nào
Đôi bờ giới tuyến hằn sâu nỗi đau…
Giọng hát bình dị trên cây cầu lịch sử, giữa không gian bao la của dòng sông, khiến những người con đất Việt không khỏi nghẹn ngào, xúc động. Khách phương xa đến từ miền Bắc cũng hòa theo tiếng hát, có người không kìm được nước mắt.
Phải chăng, khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết “Nối vòng tay lớn” với câu “Ngày vui lớn sẽ qua trăm cầu…”, cầu Hiền Lương chính là hình ảnh ám ảnh nhất trong tâm trí ông? Và khi nhạc sĩ Văn Cao viết “Mùa xuân đầu tiên”, bước chân người Việt qua cầu Hiền Lương đã không còn ngập ngừng, e ngại, mà tràn đầy niềm tin và hy vọng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Năm 2010, hai họa sĩ sinh đôi Lê Ngọc Thanh và Lê Đức Hải đã tạo nên bộ phim nghệ thuật sắp đặt “Cây cầu (The Bridge)” ngay trên cầu Hiền Lương, nhân dịp 30-4. Bộ phim thể hiện sự khao khát tìm tòi, sáng tạo của người nghệ sĩ, đồng thời gửi gắm thông điệp về lịch sử dân tộc một cách mới mẻ và sâu sắc. Tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn, thu hút sự quan tâm của dư luận và báo chí, khẳng định giá trị nghệ thuật và ý nghĩa lịch sử của cầu Hiền Lương.
Ký Ức Tuổi Thơ và Nhịp Sống Hôm Nay
Tuổi thơ của nhiều người Việt Nam gắn liền với những câu chuyện về sông Hiền Lương. Từ những trang sách, những lời kể của người lớn, hình ảnh dòng sông và cây cầu đã khắc sâu vào tâm trí. Năm 1979, lần đầu tiên được đặt chân đến Hiền Lương, cảm xúc thật khó tả. Thị trấn Hồ Xá khi ấy còn tiêu điều, nhưng tháp nước tròn vươn cao như một khát vọng về hòa bình, thống nhất và ấm no, hạnh phúc.
Những năm tháng làm báo, không biết bao nhiêu lần qua lại cầu Hiền Lương, cây cầu và dòng sông đã trở nên thân thuộc. Nhưng mỗi lần đến đây, cảm xúc vẫn vẹn nguyên, không hề chai sạn.
Trong một cuộc họp về phương án trùng tu di tích cầu Hiền Lương tại UBND tỉnh Quảng Trị, một kỹ sư đã phát biểu: “Trùng tu về mặt kỹ thuật không khó, nhưng để phục hiện nguyên bản thì cần cẩn trọng, vì đây không chỉ là chiếc cầu bình thường mà còn là di tích lịch sử được nhiều người quan tâm.” Câu nói ấy cho thấy sự trân trọng và ý thức bảo tồn di sản lịch sử của những người con Quảng Trị.
Một lần nọ, trên đường đi xe máy qua cầu, tôi nảy ra ý định đếm các tấm ván lót trên cầu di tích, để kiểm chứng ký ức của nhà văn Nguyễn Tuân. Đó cũng là một kỷ niệm đáng nhớ, thể hiện sự tò mò và lòng yêu mến đối với di tích lịch sử này.
Trong một phóng sự về cầu Hiền Lương, cựu chiến binh Lương Xuân Vy từ Lào Cai tâm sự: “Chúng tôi qua cầu Hiền Lương nhiều lần rồi, nhưng lần nào cũng thấy bồi hồi xúc động. Mong Quảng Trị bảo tồn tốt di tích này, để không chỉ người dân hôm nay đến chiêm ngưỡng mà còn để con cháu mai sau đến tham quan, hiểu thêm lịch sử của cha ông mình.”
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Lợi ở Phú Thọ cũng chia sẻ: “Trước đây, chúng tôi đã đến di tích bên sông Hiền Lương. Lúc ấy di tích còn sơ sài. Hôm nay quay lại thấy khang trang, chúng tôi rất mừng. Thái độ đón tiếp, phục vụ của cán bộ, nhân viên ở đây cũng rất niềm nở, thân tình. Mong Quảng Trị tiếp tục đổi mới và phát triển, càng có điều kiện để nâng cấp di tích khang trang, tiện nghi hơn nữa.”
Dịp 30-4-2020, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel J. Kritenbrink đã đến thăm Quảng Trị. Ông đã dạo bước trên cầu Hiền Lương và bắt tay Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hoàng Nam. Báo chí gọi đó là “cái bắt tay lịch sử”, báo hiệu một bước tiến mới trong quan hệ Việt – Mỹ, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai hòa bình, hữu nghị và hợp tác.
Vĩnh Linh đã bước vào vận hội mới. Hiền Lương không chỉ là địa danh lịch sử mà còn là lương tâm, khát vọng và phẩm hạnh của Quảng Trị, của Việt Nam. Trên con đường phát triển ấy, những đoàn hiền xe vân tải ngày đêm nối liền Bắc Nam, vận chuyển hàng hóa, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, hiện đại. Hình ảnh những đoàn xe chở nặng ân tình, vượt qua những nhịp cầu, gợi nhớ về sự vươn lên mạnh mẽ của dân tộc, từ quá khứ đau thương đến tương lai tươi sáng.
Cầu Hiền Lương được xây dựng từ năm 1928. Trước đó, người dân chỉ có thể qua sông Bến Hải bằng đò. Cây cầu đầu tiên rộng 2m, đóng bằng cọc sắt, chỉ dành cho người đi bộ. Đến năm 1943, cầu được nâng cấp để xe nhỏ có thể qua lại. Năm 1950, người Pháp xây dựng cầu bê tông cốt thép trên tuyến đường thiên lý Bắc – Nam, phục vụ mục đích quân sự. Cầu dài 162m, rộng 3,6m, trọng tải 10 tấn. Nhưng chỉ hai năm sau, cầu bị Việt Minh đánh sập.
Tháng 5-1952, người Pháp xây lại cầu hoành tráng hơn, dài 178m, rộng 4m, trọng tải 18 tấn. Cầu được chia làm hai phần, mỗi bên dài 89m. Sau Hiệp định Genève, cầu Hiền Lương nằm trên vĩ tuyến 17 trở thành giới tuyến quân sự tạm thời. Đến năm 1973, cầu mới thực sự nối liền Bắc – Nam. Năm 1967, bom Mỹ đánh sập cầu. Năm 1975, đất nước thống nhất, nỗi đau chia cắt không còn. Năm 1996, cầu mới được xây dựng lại bên cạnh cầu cũ, đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải ngày càng tăng.
Cầu Hiền Lương không chỉ là di tích lịch sử, mà còn là biểu tượng của khát vọng hòa bình, thống nhất và phát triển của Việt Nam. Từ quá khứ đau thương, Hiền Lương đã vươn mình trở thành nhịp cầu nối liền quá khứ và hiện tại, là điểm đến ý nghĩa trên hành trình khám phá đất nước Việt Nam tươi đẹp.